Chiune Sugihara là một người hùng vĩ đại, đã dùng tính mạng và sự nghiệp của mình để cứu hàng nghìn người Do Thái vô tội thoát khỏi ách của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Ông được mệnh danh là “Oskar Schindler của Nhật Bản” bởi lòng nhân ái và cống hiến đặc biệt của mình cho dân tộc Do Thái.
Hành Trình Đến Với Tấm Lòng Nhân Ái
Sugihara Chiune sinh vào ngày 1 tháng 1 năm 1900 trong một gia đình trung lưu tại thị trấn Yaotsu, tỉnh Gifu, Nhật Bản. Ban đầu, cha ông muốn ông theo đuổi ngành y để trở thành một bác sĩ, nhưng Sugihara đã cố tình trượt kỳ thi đầu vào bằng cách chỉ viết tên riêng trong bài kiểm tra. Thay vào đó, ông đã đăng ký vào chuyên ngành tiếng Anh tại Đại học Waseda năm 1918 để làm hiện thực ước mơ trở thành giáo viên tiếng Anh. Tuy nhiên, khó khăn về tài chính khiến ông phải tạm dừng việc học của mình. Sau đó, ông đã thay đổi hướng đi và tập trung vào kỳ thi trao đổi sinh viên để trở thành một nhà ngoại giao với mục tiêu này được chính phủ tài trợ. Ông đã vượt qua kỳ thi và trở thành một học viên thực tập ngôn ngữ Nga, sau đó trở thành một chuyên viên nghiên cứu văn hóa Liên Xô và là một quan chức cao cấp của Bộ Ngoại giao Nhật Bản.
Tấm Lòng Nhân Ái Cứu Sống Hàng Nghìn Người
Vào mùa thu năm 1939, Sugihara được gửi đến Kaunas, Litva để thành lập Lãnh sự quán Nhật Bản. Ông đảm nhận vai trò Phó Lãnh sự và nhiệm vụ của ông là thu thập thông tin tình báo về hoạt động của quân đội Xô Viết và Đức. Gần ngay sau đó, ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức Quốc xã xâm lược Ba Lan, khiến hàng ngàn người Do Thái ở Ba Lan chạy tới Litva. Khi Litva bị Liên Xô chiếm đóng vào năm 1940, nhiều người Do Thái tị nạn từ Ba Lan cũng như Litva đã cố gắng xin cấp thị thực để rời đi. Tuy nhiên, không có quốc gia nào sẵn lòng cấp thị thực cho họ. Vào thời điểm đó, Chính phủ Nhật Bản chỉ cho phép cấp thị thực cho những người đã tuân thủ quy trình nhập cảnh và có đủ nguồn tài chính. Hầu hết những người tị nạn không đáp ứng được các tiêu chí này. Sugihara đã liên hệ với Bộ Ngoại giao Nhật Bản ba lần để yêu cầu cấp thị thực cho những người Do Thái này. Nhưng ông chỉ nhận được câu trả lời thất vọng: “Không cấp thị thực cho những người không tuân thủ quy trình”. Sugihara nằm trong tình thế khó khăn khi phải đối diện với lựa chọn giữa cấp thị thực và việc cứu sống người Do Thái, vì việc không tuân thủ sẽ khiến ông bị mất công việc. Cuối cùng, sau khi tham khảo ý kiến của vợ, ông quyết định bắt đầu cấp visa quá cảnh Nhật Bản cho những người Do Thái tị nạn tại lãnh sự quán Nhật Bản.
Hành Trình Cứu Rỗi
Trong vòng 6 tuần, ông đã làm việc hơn 16 tiếng mỗi ngày để cấp khoảng 300 visa mỗi ngày. Hầu hết người tị nạn đã bỏ qua Litva bằng đường bộ và không có hộ chiếu để đóng dấu. Do đó, ông phải viết tay một bản visa và đóng dấu trên đó. Ngày cuối cùng của ông tại Litva, ông vẫn tiếp tục cấp visa cho người tị nạn Do Thái, và ông đã đưa tấm visa cuối cùng qua cửa sổ toa tàu ngay trước khi tàu rời khỏi ga. Ước tính rằng ông đã viết ít nhất 2.139 visa, mỗi visa có thể phục vụ một gia đình. Tổng cộng từ 6.000 đến 10.000 người được cứu nhờ những hành động cao cả của ông. Các người này đã được gọi là “Sugihara Survivors”.
Một Ngày Hôm Qua, Một Trái Tim Vĩ Đại
Sau khi trở về Nhật Bản vào năm 1947, Sugihara bị sa thải khỏi Bộ Ngoại giao vì đã cấp visa trái quy định. Trong 39 năm còn lại trong cuộc đời, ông phải làm nghề bán bóng đèn để kiếm sống. Sau đó, ông chuyển sang làm việc cho một công ty thương mại tại Moscow.
Năm 1968, Joshua Nishri, một viên chức kinh tế của Israel tại Tokyo, người đã được cứu nhờ visa của Sugihara, đã tìm thấy ông và đề cử tên ông vào danh sách “Người Công Chính Trung Lập” tại Bảo Tàng Holocaust Yad Vashem ở Israel. Năm 1985, ông là người duy nhất từ châu Á được trao giải “Người Công Chính Trung Lập” bởi Bảo Tàng Holocaust ở Israel. Sugihara và gia đình của ông đã được trao quốc tịch Israel vĩnh viễn.
Khi được hỏi tại sao ông đã đánh đổi sự nghiệp của mình như vậy, ông trả lời: “Họ đều là con người và cần sự giúp đỡ. Tôi rất vui mừng khi tôi có khả năng giúp đỡ họ”. Ông cũng nói: “Tôi có thể đã không tuân thủ mệnh lệnh của chính phủ, nhưng nếu không làm như vậy, tôi sẽ không tuân thủ ý nguyện của Chúa”.
Sugihara mất vào năm 1986 tại một bệnh viện ở Kamakura. Mặc dù đã được công nhận tại Israel và các quốc gia khác, ông vẫn còn ít người biết đến tại quê nhà. Chỉ khi một đoàn đại diện người Do Thái từ khắp nơi trên thế giới, bao gồm cả Đại sứ Israel tại Nhật Bản, đã đến dự đám tang của ông, hàng xóm của ông mới biết được những cống hiến của ông.
Vào ngày 10 tháng 10 năm 2000, để kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã lắp đặt một bảng kỷ niệm tại Dinh Tổng Thống, và một buổi lễ diễn ra với sự hiện diện của bà Yukiko Sugihara – vợ của Sugihara và những người khác.
Tượng tưởng vĩ đại Sugihara tại quê nhà Yaotsu, tỉnh Gifu.
Mirai.edu.vn